LỊCH SỬ NGÔI ĐỀN TỪ KHẢO 

Lời Ngỏ: Thưa các vị quý khách và bạn đọc.

Từ thời xa xưa cho đến ngày nay, nhân dân thường nghe lịch sử của đền Từ Khảo ở vùng Đào Quán, Lạng Giang. Được lưu truyền lại đến nay cũng đã được hơn một thế kỷ. Nhiều người đã hỏi với chúng tôi tại sao gọi là đền Từ Khảo?

Để giải thích việc này, nhằm giúp quý vị hiểu về những điều cơ bản của ngôi đền. Tôi xin được chia sẻ như sau: 

Trước đây cụ Tam là con của cụ cai Thông đã kể cho anh em chúng tôi nghe nhiều lần. Do ham mê nghe truyện, nên đã ghi vào tâm trí của tôi. Vì có tính tò mò, nên cứ hỏi sâu thêm vào truyện của các cụ – cho thật rõ ràng. Sau này tôi lại hỏi tiếp cụ Tứ, vì cụ Tứ là bậc nhà nho, cụ là thủ nhang lâu năm ở ngôi đền này. Muốn nắm được rõ chuyện cụ thể, Tôi hỏi cụ Dương Nguyên Súy ở làng Phù Lão, cụ Nguyễn Ngọc Giáp ở Trường Hà, cụ Thưởng ở Bến Cát, cụ Đĩnh ở Làng Gai (Tức Bang Châu). 

Còn phần tôi khi còn nhỏ, hay được lên quét sân ở trên đền, đun nước thay cho bố tôi (cụ Nguyễn Văn Đồng) vào những ngày tiết lệ, vì bố tôi làm thủ nhang ở ngôi đền này và làm ông trùm của xóm. Từ đấy, tôi đã tiếp xúc được với các bậc cao niên trong làng,  nên càng hiểu thêm được nhiều chuyện. 

Nay tôi ghi chép lại, làm cơ sở để cho con cháu tìm hiểu. Nếu bạn đọc có được tư liệu rõ hơn, thì hợp tác với tôi để hoàn thiện cuốn gia phả lịch sử của ngôi đền, nhằm truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Tôi mong muốn và trân thành cám ơn sự hợp tác của quý bạn đọc.

Chúc bạn có sức khỏe và hạnh phúc!

Người viết: Nguyễn Văn Ước

Bài Viết Gồm 4 Mục:

  1. Sự hình thành của đền Từ Khảo 
  2. Ngôi Đền dưới thời Phong Kiến
  3. Sau cách mạng tháng tám – 1945 cho hết thời kỳ bao cấp
  4. Từ thời kỳ đổi mới đến nay.

1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA ĐỀN TỪ KHẢO

Đền Từ Khảo đã có từ thời xa xưa, do tổ tiên xây dựng để lại. Nhiều thế hệ kế tiếp và kế thừa.

Đền xây dựng trên gò đất cạnh bờ sông Thương, hướng Đền nhìn ngang sông về phía bắc. Kiến trúc của đền hình chữ Đinh gồm hai gian cung thượng và ba gian tiền tế.

Hình ảnh: Kiến Trúc chữ Đinh (ảnh tham khảo)

Tổng diện tích mặt bằng gồm: Đền, sân, vườn cây rộng khoảng 3500 m2. Ngoại cảnh vườn Đền có nhiều cây cổ thụ. Có những cây Đa, cây Gạo, cây Si đường kính trên 1m. Có 7 cây Hồng Pháp cao hơn 30m, cây Nhột, cây Chòi Mòi, cây Cọ. Nhiều loại cây gỗ rừng, cây đại cổ thụ. 

Đặc biệt, một cây gạo cổ thụ đường kính lớn mọc ở cạnh miếu lộ thiên cùng với cây Si cong gù như một cầu thang. Cây Si có bộ rễ to, cuốn vào cây gỗ Gạo, tạo thành những bậc tự nhiên. Trẻ con trong làm thường leo lên cây Si rồi chuyền sang cây Gạo để bắt tổ chim và lấy quả Gạo ăn. Cây gạo, cây Si đã tạo thành hình cái võng, nên nhân dân coi đây như là võng của thần tiên. Thật là địa linh, có sự cuốn hút như chốn bồng lai tiên cảnh. Những bóng cây cổ thụ to lớn, tĩnh mịch nằm trong khuôn viên yên tĩnh của ngôi Đền, hòa nhập cùng con sông uốn lượn với dòng nước trong xanh, đã tạo nên một phong cảnh sơn thủy hữu tình. 

Cây Si và cây Gạo mọc ở cạnh miếu. Miếu lộ thiên này thờ phu nhân Phương Dong Công Chúa Phạm Thị Tuệ.

Ngôi Đền cách Nghè khảo khoảng 150 m. Đền và Nghè cùng chung một hướng Đông Bắc của một khuôn viên nằm trong một quần thể, vì thế mà có thên là Từ Khảo

Đền thờ ngài Nam Bình Giang Đô Thống Đại Tướng Quân cùng với Phu nhân của ngài là Mỵ Nương Phương Dong Công Chúa Phạm Thị Tuệ. 

Ngôi Nghè thờ vị thần, với bí danh của người là: Hoàng Minh Thái Giám Thần Thần Vị.

Ngày lễ là ngày 10 tháng 2 Âm lịch hàng năm.

2. NGÔI ĐỀN DƯỚI THỜI PHONG KIẾN 

Hàng năm, dưới sự tác động của thiên nhiên. Nước lũ đã làm xói mòn, sạt lở bờ sông trước cửa Đền, sân Đền dần dần bị thu hẹp lại. Lo ngại không đảm bảo lâu dài, theo nguyện vọng của nhân dân trong vùng, đã thỉnh cầu nguyện vọng với nhà chức trách thời bấy giờ. Đa phần những nhà thương lái buôn thường đi lại bằng đường thủy, đi đò dọc từ Bắc Giang lên bến sâu mua củi, mua gạo ở chợ Luộc (chợ Tân Quang) xuôi về Bắc Giang tiêu thụ. Mỗi lần qua lại dòng sông, phải lên Đền làm lễ rồi mới dám đi xuôi thuyền. Thời bấy giờ, ở làng Gai, xã Đào Quán có vị quan cai quản ở Bang Châu này, tên là Dương Ngọc Rốc (cụ làm quan Bang Châu, tại gia có lĩnh rõng gác từ cổng). Cụ đã xoay lại cổng và hướng Đền như ngày nay, dựng lại hướng mới vào ngày 10/2/1831 (Âm Lịch). Và đổi tên Đền của xã Đào Quán, tổ chức gồm có ba làng làm hội. Đó là: làng Trừng Hà, Phù Lão, Gai Quán. Mỗi làng làm một kiệu thần rước về văn chỉ làng xã tập trung, rồi rước về Đền tế lễ xong rồi lại rước về xã làm hội ba ngày ở Tân Quang. Nên đã có câu ca nói rằng: 

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ về Đào Quán mồng mười tháng hai

Trừng Hà, Phù Lão, Làng Gai

Ba làng mở hội cầu tài, cầu vinh

Kiệu thần từ ba cửa đình

Trống dong cờ mở uy linh về Đền”

Xuống sông múc nước trong lên, dâng nước vào Đền lễ tế nghiêm trang. 

Trước đây, ở Đền còn có con rắn mình trắng, có mào, đầu và cổ đỏ. Dài như con rắn thằn lằn, hằng ngày thường chui vào cây chòi mòi rỗng lõi. Chúng tôi xem và trêu nó, nhưng nó rất hiền lành và không cắn. Con rắn chẳng đi đâu, nhân dân cho đây là rắn thần.

Vì đền ở cạnh bờ sông Thương. Trông ngược dòng sông lên bến sâu, trước án tiền của Đền có hai chữ hán cao lớn là chữ: NGHIÊM TÚC嚴肅Nghĩa là vào đền phải trong sạch, nghiêm trang. 

Trước cửa Đền khoảng 200 m có bến đò, ngày đó thường gọi là Bến Sâu. Một bên tiếp giáp đình Giang xã Bố Hạ- huyện Yên Thế. Bên này tiếp giáp với chợ Luộc (Tân Quang) của xã Đào Quán. Bến Sâu là nơi tập kết hàng hóa của thương lái chủ yếu là củi và gạo. Xuôi qua đò dọc về Bắc Giang tiêu thụ.

Khi qua cửa đền, thương lái lên làm lễ ở Đền. Do vậy, mà khách vào ra tấp nập hàng ngày của những phiên chợ, một cảnh trên bến dưới thuyền.

Theo cổ truyền địa phương, hàng năm có những lệ như. Năm mới cứ mồng bốn tháng giêng lễ ra cửa, ngày 10 tháng giêng, lễ thượng nguyên năm mới. 

Ngày 10 tháng hai lễ hội. Xã Đào Quán mở hội du tiên và rước kiệu về Đền tế lễ gọi là Đền của xã Đào Quán. 

Ngày 10 tháng 4 là lễ vào hè

Ngày 10/7 là lễ vu lan và ra hè

Ngày 10/12 lễ tất niên

Những ngày lễ tiết, người làm lễ phần lớn là nam giới và những vị chức sắc trong xã Đào Quán. Vật phẩn dâng lên làm lễ là chay như: oản quả, chè nước, trầu cau.

Đền có vị thủ nhang, thường trông nom quét dọn và tu lễ những ngày lễ tiết. Cụ Nguyễn Văn Vãng là trưởng thôn Khai Hóa (Bến Cát ngày nay) và kiêm cả thủ nhang của Đền. Đến khi cụ Vãng qua đời, dân lại cử cụ Nguyễn Văn Đồng tiếp tục công việc thủ nhang những ngày tiết lễ. Cụ thủ nhang chuẩn bị lễ sẽ:  Làm xôi, đóng oản, đun nước, quét dọn. Vì vậy, mà anh Thích và tôi cứ thay phiên lên Đền giúp việc cho bố (cụ Nguyễn Văn Đồng). 

Đặc biệt là ngày 4 tháng 1 lễ ra cửa thì tu lễ mặn. Lúc bây giờ dân số ít, không kể nam hay nữ. Mỗi năm là 4 người tu lễ theo lệ làng xóm. Mỗi xuất là 1 con gà trống, 3 kg và hai đấu gạo nếp, 1 chai rượu, trầu cau và nửa đấu gạo tẻ. Chiều mồng 3 tết tập kết lễ ở nhà cụ Đồng, tối thịt gà rồi hầm cả đêm, sáng ra làm xôi. Sáng mồng 4 tháng 1 (âm lịch) chia làm 2 kiệu. Rước lên đền một kiệu, rước lên nghè 1 kiệu. Làm lễ xong về nhà cụ Đồng thụ lộc. Chủ yếu là xôi gà và ăn cháo cụ nấu bằng nước hầm gà.

Buổi chiều lên sân Nghè Khảo mở trò chơi dân gian. Như kéo co, kéo cóc, đánh vật. Kỷ niệm của tôi nhớ là cụ Ký Hảo vật cụ Âu. Cụ Âu va mồm vào rễ cây Đa bị vỡ quai hàm, thế là cứ gọi là ông (Âu móm).

Đây là thời kỳ trước cách mạng tháng 8 nên còn nặng về thủ tục cúng lễ, sau cách mạng tháng 8 thì đơn giản hơn.

3. SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 / 1945 ĐẾN HẾT THỜI KỲ BAO CẤP. 

Trước cách mạng tháng 8. Đặc biệt, ngày 24 tháng 6 năm 1945. Cụ Nguyễn Văn Thưởng và tổ tự về có 5 người tập kết ở Đền Từ Khảo. Với một chiếc thuyền nan do cụ Thưởng chỉ huy, đã ngược dòng sông lên bến Thác đón bà Hà Thị Quế từ Yên Thế về nhà Chánh Triệu (làm trưởng đồn Bố Hạ, cho Nhật đóng quân ở đấy) để đánh Nhật. Quân ta làm chủ, giành thắng lợi an toàn, cho nên cụ Thưởng được hưởng quyền lợi là cán bộ tiền khởi nghĩa từ đây.

Năm 1950,  Pháp đánh bom chum xuống chùa ba nước – xóm Cái, làng Trừng Hà, xóm Rậm (xóm Đông), xóm Thắm, Cầu Bạc làng Phủ Lão, xóm Mỹ Cầu. Do vậy, nhân dân ở xóm Ruồng Cái làng Trừng Hà phải sơ tán xuống đồi sim (gọi là rừng sim). Vì thế, làng Trừng Hà có thêm xóm Rừng Sim. Từ đó, Đền Từ Khảo lại là nơi sinh hoạt văn hóa chính trị của làng Trừng Hà, do ông Nguyễn Đăng Gác làm chủ tịch liên việt điều khiển họp hành. Ông Ký Bảo là trưởng thôn của làng điều hành công việc. Đây còn là trường học bình dân của làng.

Thời kỳ đánh Mỹ đến tháng 8 năm 1965, kho xăng dầu sơ tán về Đào Mỹ. Trong đó kho ở đồi Lốc, làng Gai và một kho xăng khu vực bến Sâu và Rừng Sim. Đến ngày 13-5 Âm Lịch năm 1966. Mỹ cho may bay đánh vào 2 kho xăng, xóm Rừng Sim bị tàn phá nặng nề nhất, trong đó có Đền Từ Khảo cũng bị tàn phá nặng nề với 5 quả bom của Mỹ. Trận đánh bom đó đã san phẳng khu di tích lịch sử của địa phương. Đến năm 1972 nhà máy gạch Tân Xuyên, Lạng Giang sơ tán về khu vực Bến Cát, công nhân thì ở nhà dân. Đền Từ Khảo là nơi sinh hoạt như hội trường, bếp ăn. Thời gian là 3 năm. 

Sau hòa bình lập lại năm 1975, cụ Nguyễn Hữu Tứ vận động nhân dân củng cố khôi phục lại ngôi Đền bằng tấm lòng hảo tâm. Mọi người cùng quyên góp: Tre, Gỗ,.. đã làm lại được nơi thờ cúng tạm thời. 

4. TỪ THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

Đến năm 1997 cụ Tứ nghỉ, dân cử 2 cụ Nguyễn Đăng Nhạc là trưởng ban quản lý di tích đền, cụ Nguyễn Văn Ước là phó ban cùng nhân dân xây dựng lại cung thượng. Đến năm 2000 thì cụ Nhạc xin nghỉ. 

Nhân dân cử cụ Ước làm trưởng ban trong năm 2000. Cụ Ước đã tổ chức làm lại  bếp, làm sân khấu để sinh hoạt văn nghệ, làm thêm mái hiên cửa Đền, củng cố sân thềm, và đổi ruộng san sân bóng. 

San lấp hố bom trong lúc đổi ruộng là có công của cấp ủy, từ anh Duyệt làm bí thư chị bộ, anh Thuận làm trưởng thôn. 

Phấn khởi nhất là năm 2002 cụ Ước vận động nhân dân, được hưởng ứng cao đã phục hồi được ngày lễ truyền thống là ngày 10/2 âm lịch hàng năm theo lịch sử của xã Đào Quán năm Canh Thìn 1940, hội đu tiên của xã và đã tổ chức lễ và giao lưu mở rộng ngày hội lệ như ngày xưa.

Năm 2007, cụ Ước xin nghỉ trưởng ban. Dân lại cử ông Đoạt là trưởng ban. 

Tháng 8 năm 2013 nhân dân trong làng đã cùng nhau tu tạo, xây lại ngôi Đền khang trang hơn

Ngôi Đền sau khi tu tạo năm 2013

Năm 2016, ông Đoạt cùng với anh Minh trưởng thôn vận động nhân dân xây dựng lại 3 gian cung thượng, hiện như ngày nay và đến năm 2018 ông Đoạt nghỉ trưởng ban. 

Ảnh bên trong Đền Thờ Ngài Nam Bình Giang Đô Thống Đại Tướng

Ban Thờ Mẫu: Phạm Thị Tuệ

Cùng năm 2018, Dân lại cử ông Nguyễn Viết Thoa làm trưởng ban. Cuối năm 2019, Ông Thoa kêu gọi nhân dân và các con cháu đi làm ăn xa cùng đóng góp được gần 200 triệu và nâng cấp được ngoại cảnh trong toàn khuôn viên như đường sân bóng, sân khấu khang trang.

Đường dẫn vào Đền Từ Khảo

Ảnh khoảng sân và sân khấu ngoài Đền

Thưa toàn thể nhân dân và quý vị đại biểu.

Từ ngày, thôn Bến Cát được nhận danh hiệu là nông thôn mới, nhà Văn Hóa khang trang, bê tông cứng hóa đường làng được nâng cấp, đời sống và bộ mặt nông thôn không ngừng đổi thay. Song còn cảnh quan quần thể ngôi đền thuộc về Di tích Lịch sử Văn hóa chưa đáp ứng với làng. Mong muốn của nhân dân chính vì những lẽ đó mà ban mặt trận, các ban ngành cùng ban quản lý đền, với sự đồng thuận của dân mở cuộc vận động toàn dân và những nhà tài trợ, như những anh em đi làm ăn xa luôn hướng về quê nhà với tấm lòng thành muốn cho quê hương ngày càng giầu đẹp. Thay mặt toàn thể dân làng tôi xin trân trọng cám ơn tình cảm của toàn thể nhân dân cũng những người con xa quê đã luôn hướng về nguồn cội. Nơi mình đã sinh ra và lớn lên.

DI TÍCH NGHÈ KHẢO

Nói đến Nghè Khảo, phải sơ qua lịch sử của làng Trừng Hà thời xưa và làng Trường Hà ngày nay. 

Theo chuyện kẻ lại rằng, từ thời xa xưa. Làng Trừng Hà chỉ có ba xóm: Xóm Ruồng, xóm Cái, xóm Rậm (tức xóm Đông) và xóm Bờ Đê (tức Đồng Mới). Riêng xóm Đồng Mới thành lập sau, cả làng chỉ có trên 90 hộ dân. Riêng đồi Sim còn gọi là Rừng Sim làng quy định để thả trâu bò, chỉ có đồi đất hoang với sim, mua. Còn xóm Trại Cát chỉ là rừng rậm có đủ thú rừng như: Hổ, lợn rừng, khỉ, vượn, chim thú,… vì trước kia tổ tiên ta tranh chấp, giành giật từng cánh đồng với những làng khác để vạch đường biên giới thổ nhưỡng với Tiên Lục. Nên các cụ chỉ xây dựng đình làng tại khu trung tâm như ngày nay nên không tiến thêm được. Nên đã gọi tên là làng Trừng Hà. 

Đến năm 1957 có 3 cụ từ xóm Ruồng Cái

Cụ Nguyễn Đăng Nam – xóm Cái

Cụ Nguyễn Văn Sắn – xóm Ruồng

Cụ Nguyễn Văn Vãng- xóm Ruồng

Rủ nhau xuống khai hoang, vỡ rậm ở Bến Cát lấy tên là xóm Khai Hóa. Ở sông Thương có bãi cát bồi và nhiều bãi mầu, dân thường gánh cát về xây dựng nhà cửa nên sau đổi tên là xóm Bến Cát như ngày nay. Ba cụ chia nhau, mỗi người một khoảnh để tiện trông nom. Đặc biệt cụ Nam đánh bẫy được con hổ ở khu vực Đồi Voi, đã bị ông Bang Châu đe phạt vì phạm vào luật bảo vệ thú rừng, thậm trí còn phải đi tù. Thế là cụ phải nhờ người nói hộ, rồi biếu không con hổ để khỏi bị phạt. Còn ở Đồi Sim, đa phần đồng bảo ở vùng xuôi tản cư lên ở, rồi nhập khẩu. Sau này dân cư đã có trên 40 hộ.

Còn về Nghè Khảo chỉ là rừng nứa vầu và gỗ, trong đó có một ngôi Nghè bàn thiên không rõ xây dựng từ bao giờ. Ba cụ rủ nhau chặt gỗ và nứa dựng thành gian Nghè để thờ cúng. Gỗ và nứa chặt tại chỗ ở đồi khảo từ ngày 3 cụ xuống ở, đến năm 1945 thì dân số phát triển ở Bến Cát là 18 hộ. 

Cũng từ năm 1937 làng Trừng Hà, diện tích kéo dài thêm 3 cây số, nên làng đổi tên thành làng Trường Hà như ngày nay.

Tổng số đất Nghè rộng là sáu sào bắc bộ. Có nhiều cây gỗ cổ thụ, sau các cụ vỡ rậm. Trồng những cây cổ thụ gồm 4 góc vườn là 4 cây Đa to, nhiều cây Bàng, cây Sộp, cây Đề. Song đến nay, diện tích Nghè có một số hộ dân xin đất làm nhà, nên mặt bằng bị thu hẹp. 

Phong cảnh rừng rậm rạp đã tạo nên một sự yên tĩnh, khiến cho người qua lại tự mình có những cảm giác sợ không dám nhìn lên Nghè. Nên sau khi xây lại Nghè vào năm 1904 bằng gạch như ngày nay, trước án tiền có viết hai hàng câu đối bằng chữ hán nôm (tôi không nhớ rõ, nổi lên là 3 chữ Hán to cao khoảng 50 cm là: Hành Ngưỡng Chỉ có nghĩa là đi ngẩng trông).

Thưa toàn thể nhân dân và bạn đọc.

Một quần thể Đền và Nghè đến nay cũng đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài. Nên đình chùa, nghè, miếu có phần nào xao nhãng về mặt tâm linh. Năm 2014. Cụ Ước đề xuất và được các cụ đồng ý tổ chức làm tuần: Một tháng 2 lần mồng một và ngày rằm. Sau hòa bình lập lại và không còn thời kỳ bao cấp, được nhà nước cho nhân dân quyền tự do tín ngưỡng. Trong phạm vi các nơi thờ cúng dần dần được khôi phục trong khuôn khổ, dân tự nguyện đóng góp tiền của sửa chữa và xây dựng lại ngày càng đẹp lên. Những thành quả trên là nhờ có sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân cùng đóng góp công, góp của để củng cố và xây dựng. Thể hiện sức mạnh toàn dân.

Thưa các bà con nhân dân. Những cơ sở vật chất và cảnh quan quần thể di tích đền Từ Khảo đã có từ lâum nên đã chứng kiến biết bao nhiêu sự biến cố, thăng trầm biến đổi của lịch sử và thời gian. Mỗi người dân ở quê hương cần phải bảo vệ trông nom với tấm lòng từ tâm, mọi người đáng được tự hào rằng ta là người sống có trách nhiệm với cộng đồng

Danh Sách Những Vị Đã Làm Trưởng Ban Quản Lý Và Thủ Nhang Nhà Đền

STT Danh Sách 
1 Cụ Thống – Trưởng Ban Cụ Vãng – Thủ Nhang
2 Cụ Nhạc – Trưởng Ban  Cụ Đồng – Thủ Nhang
3 Cụ Ước – Trưởng Ban Cụ Tứ – Thủ Nhang
4 Ông Đoạt – Trưởng Ban Cụ Tấc – Thủ Nhang
5 Ông Thoa – Trưởng Ban Ông Đoạt – Thủ Nhang

 

Người Viết: Nguyễn Văn Ước

Đánh máy và biên chỉnh: Thanh Giang

Hà Nội, 1 tháng 1 năm 2021

 

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *